Anh/chị thân mến,
Abu’l-Fazl
Zeynüddîn
Abdurrahim ibn al-Husayn ibn Abdirrahman
al-Iraqi
(mất năm 806/1404),
Ông là một học giả về hadith và là người thuộc lòng hadith. Nói cách khác, ông là một muhaddis.
Ông sinh ra ở Menşeetülmihrânî, bên bờ sông Nile, Cairo vào ngày 21 tháng 2 năm 725 (5 tháng 5 năm 1325). Cha ông, Hussein, có nguồn gốc người Kurd, đã di cư từ thị trấn Râznân thuộc Erbil, miền Bắc Iraq, đến Cairo và định cư tại đây.
Người Iraq
ông mất cha khi mới ba tuổi. Người Iraq này có trí nhớ rất tốt,
đã thuộc lòng Kinh Koran ở tuổi tám
Cũng như các văn bản chính được giảng dạy trong các ngành học khác nhau, ông đã học thuộc lòng cuốn sách et-Tenbîh của Abu Ishaq as-Sirazi về giáo pháp Shafi’i.
Ban đầu, ông tập trung vào việc học kinh Koran và tiếng Ả Rập, học kinh Koran bảy cách đọc (Qira’at as-Sab’a) từ Abdurrahman b. Ahmed b. Baghdad và nhiều người khác. Trong thời gian đó, ông cũng tự trau dồi kiến thức về pháp luật Hồi giáo (Fiqh), phương pháp luận pháp luật Hồi giáo (Usul al-Fiqh) và giải kinh (Tafsir). Với sự khuyến khích của Izzeddin Ibn Jama’a, ông chuyển sang nghiên cứu Hadith. Mặc dù không rõ ông bắt đầu học Hadith khi nào, nhưng có thông tin cho thấy ông đã học Hadith ở tuổi 12, bài học Hadith đầu tiên của ông là từ Shahabeddin Ahmed b. Abi’l-Ferec Ibn al-Baba, và ông đã nhận được những kiến thức quan trọng trong lĩnh vực này từ học giả Hanafi Alâeddin Ibn al-Turkmânî ở Cairo, cũng như từ ông và Abdurrahim b. Abdullah b. Shahid al-Jaysh, người mà ông đã học Sahih al-Bukhari.
Sau khi được hưởng sự hướng dẫn của những nhà truyền giáo nổi tiếng ở Cairo
Damascus, Hama, Homs, Aleppo, Alexandria, Tripoli, Baalbek, Nablus, Gaza, Jerusalem, Mecca và Medina.
đã đi đến các trung tâm học thuật, nơi có các học giả nổi tiếng mà ông đã từng nghe đến, bắt đầu từ…
Lĩnh vực mà Irâki thành thạo nhất là Hadith, và các thầy của ông là Alâî, İzzeddin b. Cemâa, Takıyyüddin es-Sübkî, İsnevî và Ebü’l-Fidâ İbn Kesîr đã đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh này của ông.
Bắt đầu sáng tác từ rất sớm
Iraqi đã xác định nguồn gốc của các hadith (truyền thuyết Hồi giáo) trong tác phẩm Ihya Ulum al-Din của Ghazali khi ông mới 20 tuổi.
Sau năm 752 (1351), ông hoàn toàn dốc tâm vào nghiên cứu hadis, dành thời gian cho việc đọc, giảng dạy và viết. Ông đã hồi sinh các buổi học hadis, một hình thức đã bị bỏ quên từ thời Ibnus-Salah ash-Shahrazuri.
Ông đã truyền đạt hadith cho học trò của mình trong 416 buổi học ở Medina, nơi ông bắt đầu, và sau đó ở Cairo cho đến sáu tháng trước khi ông qua đời, kéo dài trong mười một năm. Ibn Hajar nói rằng ông đã cho học trò ghi chép lại hầu hết các hadith từ trí nhớ trong những buổi học này. Các trung tâm chính mà ông giảng dạy hadith ở Cairo là Dar al-Hadith al-Kamiliyya và al-Zahiriyya, cũng như nhà thờ Hồi giáo Ibn Tulun. Ông cũng giảng dạy pháp luật Hồi giáo (fiqh) tại trường Fâziliyya. Ngoài ra, ông còn giảng dạy hadith và đưa ra phán quyết (fatwa) ở nhiều thành phố khác nhau của Ai Cập và Syria, cũng như ở Mecca và Medina. Ở Cairo, ông vừa đào tạo học trò vừa làm chức vụ thuyết giảng. Ông cũng giữ chức vụ thẩm phán ở Medina từ năm 788 (1386) trong ba năm rưỡi.
Ông đã đảm nhiệm chức vụ imam và thuyết giảng tại Nhà thờ Nabawi.
Sau đó, ông đảm nhiệm chức vụ thẩm phán thành phố Mecca.
Người Iraq
Hầu hết các học giả nổi tiếng của thời đại đó đều đã hưởng lợi từ nó.
Abu’l-Fida Ibn Kathir,
Mặc dù lớn hơn ông hai mươi bốn tuổi, nhưng ông đã đọc một số tác phẩm của Irâki và được hưởng lợi từ Irâki về việc biên soạn hadith. Tuy nhiên, những người hưởng lợi nhiều nhất từ Irâki là Nuredin el-Heythami, Ibn Hajar el-Askalani và con trai của ông, Abu Zur’a, người được biết đến với tên Ibn al-Irâki. Heythami đồng thời là bạn, con rể và người trợ giúp lớn nhất của ông. Irâki đã hướng Heythami nghiên cứu về chủ đề zawaid và hướng dẫn ông trong những nghiên cứu này. Ibn Hajar đã học với Irâki mười năm, đọc tác phẩm của chính ông, cũng như các tác phẩm của Tirmidhi (es-Shama’il), Darukutni (es-Sunan), Abu Awana (es-Sahih), Bayhaqi (es-Sunan al-Kubra) và nhiều tác phẩm khác.
Ibn al-Liraki cũng đã tận dụng mọi cơ hội để học hỏi từ cha mình. Khi ông qua đời, khi được hỏi ai là những người học thuộc hadith còn lại sau ông, ông đã lần lượt kể tên Ibn Hajar, rồi con trai mình là Abu Zur’a, và cuối cùng là Nuredin al-Haythami, điều này cho thấy sự quan tâm đặc biệt mà ông dành cho ba học trò này.
Người Iraq
Ông được người đời kính trọng không chỉ vì sự khổ hạnh, đạo đức và nhân cách tốt đẹp mà còn vì sự hiểu biết sâu rộng trong lĩnh vực khoa học Hadith. Thật vậy, thầy của ông, Izzeddin Ibn Jamaa, coi ông là người có thẩm quyền về Hadith ở Ai Cập, trong khi Ibn Hajar nói rằng ông chưa từng thấy ai hiểu biết về Hadith hơn ông, và Suyuti nói rằng Iraqi là người cải cách của thế kỷ VIII (XIV).
Zeynüddin el-Irâqī qua đời vào ngày 8 tháng Şaban năm 806 (20 tháng 2 năm 1404). Ibn Hajar đã bày tỏ sự tiếc thương của mình qua một bài thơ điếu văn dài, đồng thời cũng cung cấp thông tin về những công trình quan trọng của ông.
Một số tác phẩm
1. Thông báo về sự hồi sinh…
Theo các nguồn tài liệu, tác phẩm này gồm bốn tập và được hoàn thành vào năm 751 (1350). Đây là cuốn sách đầu tiên và cũng là cuốn sách lớn nhất trong ba cuốn sách mà tác giả đã viết để giải thích các hadith (truyền thuyết) của Ihya’ Ulum al-Din. Hai cuốn sách khác mà ông viết về Ihya là al-Kashf al-Mubin và al-Mughni. Cuốn sách cuối cùng đã được lưu truyền đến ngày nay.
2. Sự xác định và giải thích.
Đây là phần đầu tiên trong hai nghiên cứu của tác giả về cuốn Mukaddimah của Ibn Salah, mà ông gọi là công trình quý giá nhất trong lĩnh vực usul hadith. Iraqi đã giữ nguyên bố cục của Mukaddimah, giải thích những phần cần thiết, đưa ra những phản đối ở một số chỗ và chỉ ra những lời chỉ trích không chính xác nhắm vào Ibn Salah.
3. el-Effiyye.
Iraqi đã tóm tắt phần Mở đầu của Ibnus-Salah trong 1002 câu thơ và đặt tên cho tác phẩm của mình là
“Lời khuyên cho người mới bắt đầu và lời nhắc nhở cho người đã hoàn thành”
Ông đã đặt tên cho nó như vậy. Tác phẩm của ông, nổi tiếng với tên gọi el-Elfiyye, giống như những tác phẩm tương tự, sau đó đã được Irâki bình luận và giải thích dưới tên Fethu’l-muğis.
4. Thu gọn các luận điểm và sắp xếp các luận điểm.
Trong tác phẩm này, được Irâki biên soạn cho con trai mình, Abu Zur’a, và hoàn thành vào năm 775 (1373-74), ông đã tuyển chọn và sắp xếp theo tên sách và tên chương những hadith (truyền thuyết về lời và hành động của Thánh Tổ Hồi giáo) có liên quan đến luật pháp, được truyền lại với những chuỗi truyền thuật vững chắc nhất, đặc biệt là trong el-Müsned của Ahmed b. Hanbel và el-Muvatta của Imam Mâlik, và ở cuối tác phẩm…
“Những cánh cửa của văn chương”
đã tập hợp các hadith về đạo đức dưới tiêu đề này.
5. Phụ lục cho cuốn “Mîzân al-I’tidâl”.
Một cuốn sách cung cấp thông tin về 787 người kể chuyện mà Zehbi không đưa vào Mîzânül-itidâl, mặc dù họ cần phải được phê bình, đã được xuất bản.
Iraqi còn có các tác phẩm như Nazmü Minhâci’l-vüsûl, Tekmiletü Şerhi’t-Tirmizî, Kitâbü’l-Erbaîn, et-Tüsâ’iyyât, ed-Dûrerû’s-seniyye.
(xem TDV Diyanet Ansiklopedisi, mục Iraki Zeynuddin)
Với lời chào và lời cầu nguyện…
Hồi giáo qua các câu hỏi