Veyseyl Karani có phải là một vị Sahabi (bạn đồng hành của Thánh Muhammad) không?

Chi tiết câu hỏi

Veyse Karani có phải là một vị Sahabi không?

Câu trả lời

Anh/chị thân mến,

Vị thánh nhân được biết đến với tên gọi Veysel Karani không phải là một vị Sahabi (người đồng hành của Thánh Tổ). Ông sống cùng thời với Thánh Tổ (sallallahu aleyhi ve sellem) và đã trở thành người Hồi giáo, nhưng không có cơ hội được gặp gỡ Ngài.

Các nhà truyền thuyết đã sử dụng thuật ngữ này để chỉ những người sống thời kỳ của Thánh Tổ (sallallahu alayhi wa sallam) nhưng không được gặp Ngài. Imam Muslim, Iraqi và Suyuti đã xác định một số người nổi tiếng và được biết đến trong số họ. Qadi Shurayh ibn al-Harith, nổi tiếng với tên gọi Vaysal Karani, Alkama ibn Kays và Ka’b al-Ahbar là một vài ví dụ. (xem Sahih al-Bukhari, bản dịch, Ankara 1980, I, 33-34).

Uways, người đã gặp gỡ nhiều vị Thánh hữu, được coi là một trong những người ưu tú của lớp Tabi’in và là người tốt lành trong số các người Hồi giáo. (Ibn al-Asir, Usd al-Ghabe, 1/179; Ahmad ibn Hanbal, Kitab al-Zuhd, tr. 344)

Ngài là một vị thánh lớn sống vào thời kỳ của Thánh Tổ (sallallahu alayhi wa sallam). Tên ngài là Uwais bin Amir al-Qarni. Ngài sinh ra ở làng Karn, Yemen. Ngày sinh của ngài không được biết. Ngài bị tử trận vào năm 657 (37 AH). Ngài đã hồi giáo trong thời kỳ Thánh Tổ (sallallahu alayhi wa sallam) còn sống. Nhưng vì không được gặp Thánh Tổ (sallallahu alayhi wa sallam) nên ngài không thể trở thành một vị Sahabi. Ngài không đến Medina vào thời kỳ của Thánh Tổ (sallallahu alayhi wa sallam). Hadith đã ghi nhận ngài là một trong những người Tabi’in vĩ đại. Ngài đến Medina vào thời kỳ làm Thái thú của Omar (ra). Ngài được rất nhiều sự quan tâm và kính trọng. Trước đây, ngài sống ở quê hương Yemen. Sau đó, ngài đến Basra.

Vào thời còn ở Yemen, Veysel Karani sống bằng nghề chăn dắt lạc đà. Cuộc sống của ông rất đơn sơ. Ông chỉ có mẹ già, mù lòa và đau yếu. Ông không đòi hỏi tiền chăn dắt lạc đà, chỉ nhận những gì người ta cho. Ông không bao giờ lấy tiền từ những người nghèo. Ông chia một nửa số tiền mình nhận được cho người nghèo, phần còn lại dùng cho nhu cầu của bản thân và mẹ.

Sau khi trở thành người Hồi giáo, suốt cuộc đời ông luôn cháy bỏng với tình yêu dành cho vị Tiên tri yêu dấu (sallallahu alayhi wa sallam). Ông không bao giờ quên Chúa Trời ngay cả một phút. Ông đã đạt đến trình độ cao trong việc phục vụ Chúa, đến nỗi mọi hành động, cử chỉ và lời nói của ông đều trở thành bài học và lời khuyên cho mọi người. Ông không bao giờ làm tổn thương người khác và cũng không bao giờ bị người khác làm tổn thương. Đặc điểm quan trọng nhất của ông là tình yêu dành cho vị Tiên tri (sallallahu alayhi wa sallam), sự kiên trì trong việc thờ phượng và lòng kính trọng đối với mẹ. Ông rất chăm sóc mẹ và nhận được lời cầu nguyện tốt lành của bà. Ông rất mong muốn được gặp vị Tiên tri (sallallahu alayhi wa sallam). Ông đã nhiều lần xin phép mẹ được gặp vị Tiên tri (sallallahu alayhi wa sallam). Nhưng mẹ ông không cho phép vì không có ai chăm sóc bà.

Đấng Tiên Tri của chúng ta (sallallahu alayhi wa sallam);

đã phán. (Ibn Hajar, el Isabah fi Tamyizis-Sahaba, 1/115)

Đấng Tiên Tri Muhammad (sallallahu alayhi wa sallam) thỉnh thoảng quay mặt thánh thiện của Ngài về phía Yemen và phán rằng:

đã phán. Người ta nói rằng không ai ở bán đảo Ả Rập có nhiều cừu như hai bộ lạc này. Các vị Sahaba;

Đấng Tiên Tri của chúng ta (sallallahu alayhi wa sallam);

đã ra lệnh.

họ nói.

đã ra lệnh.

họ nói.

đã ra lệnh.

họ nói.

đã ra lệnh.

họ nói.

đã ra lệnh.

họ nói với Abu Bakr;

Nhưng Ngài đã phán với Hazrat Umar và Hazrat Ali:

Vị thánh Veysel Karânî dành cả ngày lẫn đêm cho việc thờ phượng và tu tập. Ngài sống ẩn mình khỏi dân chúng. Ban đầu, mọi người đều coi ngài là người điên. Sau này, họ nhận ra tầm vĩ đại của ngài và bắt đầu kính trọng, tôn kính ngài. Sau đó, sau khi mẹ ngài mất, ngài rời khỏi làng Karn và đến thành phố Kûfa.

Khi ngày mất của Thánh Tổ (sallallahu alayhi wa sallam) đến gần, họ nói. Ngài phán. Sau khi Thánh Tổ (sallallahu alayhi wa sallam) mất, khi Khả-lị-fát-u-r-Râ-sĩ-d-dín Umar và Khả-lị-fát-u-r-Râ-sĩ-d-dín Ali đến Kufa, Umar (rã-đĩ-y-a-l-lạ-h-u-an-h) đang thuyết giảng; phán. Họ đứng dậy. phán. nói và sai vài người đến với ông. Khả-lị-fát-u-r-Râ-sĩ-d-dín Umar hỏi họ về Uwais. nói. phán. nói. phán.

Rồi hai vị, Ại-sơ-mạch-tư-lạp và Ali, đến nơi ông đang ở. Họ thấy ông đang làm lễ cầu nguyện. Thiên Chúa đã sai một thiên thần dẫn dắt những con lạc đà của ông. Khi ông kết thúc lễ cầu nguyện và chào, Ại-sơ-mạch-tư-lạp đứng dậy và chào lại. Ông nhận lời chào. Ại-sơ-mạch-tư-lạp hỏi: “…?” Ông trả lời: “…”. Ại-sơ-mạch-tư-lạp lại hỏi: “…?” Ông trả lời: “…”. Ông phán: “…”. Ông chỉ cho xem. Ại-sơ-mạch-tư-lạp nói: “…”.

khi được hỏi; anh ấy đã trả lời.

Sau đó, ông kính cẩn nhận lấy chiếc áo choàng thiêng liêng, hôn lên, ngửi, rồi dụi vào mặt và mắt mình. Rồi ông nói: Và rời khỏi họ. Đi thêm một đoạn, ông đặt chiếc áo choàng xuống đất và quỳ gối. Ông cầu nguyện với Chúa như sau:

ngài nói. Ngài cầu nguyện cho sự tha thứ của tất cả người Hồi giáo phạm tội. Khi có thông báo rằng nhiều người Hồi giáo phạm tội đã được tha thứ, ngài đã khiêm tốn mặc chiếc áo choàng thiêng liêng. (Để biết thêm thông tin, xem Ragıp İsfehani, Hiyetü’l-evliya, 2/82-87; Ahmed b. Hanbel, Kttabu’z-Zühd. tr.343 trở lên; Şeyh İsmet Efenedi, Risale-i Kudsiye; Üveys El Karnî,)

Để biết thêm thông tin, vui lòng nhấp vào đây:

Định nghĩa của Sahabi là gì, ai được gọi là Sahabi?…


Với lời chào và lời cầu nguyện…

Hồi giáo qua các câu hỏi

Câu Hỏi Mới Nhất

Câu Hỏi Trong Ngày