– Nếu Kinh Torah đã bị thay đổi, thì làm sao có thể giải thích được sự tồn tại của những câu văn đề cập đến Nhà tiên tri của chúng ta?
Anh/chị thân mến,
Người ta biết rằng bản gốc của Torah đã bị mất. Tuy nhiên, Kinh Cựu ước, với nhiều bản dịch khác nhau, có những điểm khác biệt giữa các bản dịch. Ví dụ, có một số khác biệt rõ ràng giữa bản dịch tiếng Hy Lạp, còn được gọi là Septuagint, và bản gốc tiếng Do Thái. Sự sai lệch đã bắt đầu cùng với các bản dịch tiếng Aramaic và tiếng Hy Lạp của Kinh Cựu ước, vốn ban đầu được viết bằng tiếng Do Thái.
(Để biết thêm thông tin chi tiết, xem M. Ziyau’r-Rahman el-Azamî, el-Yahudiye ve’l-Mesihiyye, tr. 175-181)
Cũng có sự khác biệt giữa các bản dịch tiếng Chal-đi, tiếng La-tinh, tiếng He-bê-rơ, tiếng Ga-li-li, tiếng A-mi-nơ, tiếng A-rập.
(tuổi, tháng).
Điều này cũng áp dụng cho các bản phúc âm mà bản gốc không còn tồn tại.
– Việc sửa đổi luật Torah được xem xét dưới hai khía cạnh:
Thứ nhất:
sửa đổi lời văn của các câu kinh và thêm vào một số nội dung.
Thứ hai,
sự xuyên tạc ý nghĩa. Về khía cạnh xuyên tạc của ý đầu tiên
“hittetun/hintatun”
có những ví dụ như vậy.
Ngoài ra, Kinh Thánh
ở
“cả những tuyên bố trái ngược với khoa học hiện đại, lẫn những câu chuyện về Thánh Lốt, Thánh David”
như những câu chuyện bịa đặt không phù hợp với danh dự của bất kỳ vị tiên tri nào, bên cạnh những sự xuyên tạc và lời bình luận.
cũng đã xảy ra theo nghĩa đen
là một dấu hiệu.
Vấn đề thứ hai liên quan đến việc làm sai lệch thông tin,
Điều này luôn xảy ra và một trong những nhiệm vụ quan trọng của các vị tiên tri sau Môi-se, bao gồm cả Tiên tri Zacharia và Tiên tri Gioan, là sửa chữa những sự hiểu lầm và xuyên tạc tinh thần này. Tuy nhiên, căn bệnh xuyên tạc này luôn tái phát ở người Do Thái.
Việc Kinh Torah và Kinh Thánh bị xuyên tạc,
Điều đó không có nghĩa là không còn bất kỳ sự thật nào trong đó. Thực tế, Hüseyin Cisri, trong tác phẩm Risale-i Hamidiyye của mình, đã trích dẫn hàng trăm thông tin trong Kinh Torah và Kinh Thánh chỉ ra sự tồn tại của Nhà tiên tri Muhammad.
Thật vậy, việc Thánh Tổ Muhammad (s.a.v.) thách thức các học giả Kitab thời bấy giờ, nói rằng họ đã che giấu sự thật trong sách vở của họ (bằng cách bóp méo sự thật thông qua lời giải thích của họ) và làm cho họ im lặng trong khi thuyết giảng, được nêu rõ trong Kinh Qur’an, Hadith, sách lịch sử và Siyer.
Dưới đây là một vài ví dụ liên quan đến vấn đề này:
a.
“Trước khi Thư Luật được ban xuống, mọi loại thức ăn đều được phép đối với người Do Thái, ngoại trừ những thứ mà Israel (Ya’kub) đã tự đặt ra là đồ ăn không được phép. Hãy nói: Nếu các ngươi là người nói thật, vậy thì hãy mang Thư Luật ra và đọc nó. Còn ai bịa đặt điều dối trá chống lại Allah, thì những kẻ đó chính là những kẻ bất công.”
(Al-i İmran, 3/93-94).
Có một vài lý do được đưa ra để giải thích lý do tại sao kinh này được ban tiết lộ:
– Người Do Thái, đối với Thánh Tổ (sallallahu alayhi wa sallam)
“Hủy bỏ = bãi bỏ quy định trước đó”
họ đã phản đối điều đó và nói rằng điều như vậy không thể xảy ra trong tôn giáo. Ayat này được ban xuống để trả lời họ và
“Trước Luật Moses – trừ những thứ mà Gia-cốp tự mình cấm/tự mình coi là phạm tội – thì những thứ khác không phải là phạm tội. Luật Moses không phủ nhận sự thay đổi (nếu có), mà ngược lại, nó đã thay đổi bằng cách cấm những thứ trước đây được cho phép đối với dân Y-sơ-ra-ên.”
ông đã thách thức những người Do Thái phản bác điều này.
– Theo một truyền thuyết khác, người Do Thái đã đến gặp Thánh Muhammad (s.a.v.)
“Một mặt anh ta nói mình thuộc dân tộc của Thánh Abraham, mặt khác lại cho phép ăn thịt và uống sữa lạc đà, những thứ bị cấm trong tôn giáo của ông ấy?..”
họ đã phản đối.
Qua câu kinh này, người ta nhấn mạnh rằng sự cấm đoán đó không phải do Chúa Abraham đặt ra, mà là do cháu trai của ông, Chúa Jacob, tự đặt ra cho mình. Theo truyền thuyết, Chúa Jacob bị mắc bệnh…
“đau thần kinh tọa”
Anh ấy đã thề rằng nếu khỏi bệnh, anh ấy sẽ không ăn thịt và uống sữa lạc đà, món ăn yêu thích của mình, như một lời hứa.
Cho dù lý do xuống kinh là gì đi nữa, điều rõ ràng là rằng, Thánh Tổ Muhammad (sallallahu alaihi wa sallam) đã khẳng định sự tồn tại của một thông tin mà người Do Thái cho rằng không có trong Kinh Torah;
“Nếu các ngươi là người nói thật, vậy thì hãy mang luật Torah ra và đọc nó lên.”
và thách thức họ, nhưng họ đã từ chối mang nó đến.
(xem Tafsir của Tabari, Kurtubi, Razi, Ibn Kathir, Ibn Ashur, Nasafi, Alusi, liên quan đến câu kinh).
b. “Hãy nói với những kẻ tranh luận với ngươi về điều này sau khi ngươi đã được ban cho sự hiểu biết: Hãy đến, chúng ta hãy triệu tập con cái của các ngươi và con cái của chúng ta, vợ của các ngươi và vợ của chúng ta, rồi hãy cầu nguyện, và cầu xin sự phước lành của Allah cho những kẻ nói dối.”
(Al-Imran, 3/61).
– Thử thách trong câu này là dành cho những người Kitô hữu ở Najran, những người đã đến Medina và
“Người khăng khăng cho rằng Chúa Giê-su là con trai của Chúa Trời”
được thực hiện chống lại một phái đoàn. Theo quan điểm của ‘Akıb Abdu’l-Mesih’, người đứng đầu phái đoàn này, thì
“sự nguyền rủa”
họ không dám trả lời lời đề nghị của anh ấy
(xem Tafsir của Tabari, Kurtubi, Razi, Ibn Kathir, Ibn Ashur, Nasafi, liên quan đến câu kinh).
c. “Những người mà Chúng ta đã ban cho kinh sách, họ nhận ra (Muhammad) như họ nhận ra con cái của mình. Tuy nhiên, một số người trong họ cố tình che giấu sự thật.”
(2:146).
– Câu kinh này nhấn mạnh việc nhận biết về Thánh Tổ Hồi giáo Muhammad (s.a.v) dựa trên những đặc điểm của Ngài được ghi trong Kinh Thánh và Kinh Torah, tương tự như cách người ta nhận biết con cái của mình giữa đám đông. Theo truyền thuyết, Thánh Omar đã hỏi Abdullah ibn Salam, một học giả Do Thái, …
“Liệu bạn có thực sự hiểu rõ về Thánh Tổ Hồi giáo Muhammad (s.a.v.) – dựa trên cuốn sách của bạn – như cách bạn hiểu rõ về con cái của mình không?”
đã hỏi, và người kia đã trả lời rằng
“Họ quen biết nhiều người hơn chúng ta”
đã nói.
(xem Tafsir của Tabari, Kurtubi, Razi, Ibn Kathir, Ibn Ashur, Nasafi, liên quan đến câu kinh).
– Một điểm rất quan trọng cần lưu ý là:
Nếu những điều mà Thánh Tổ Muhammad (s.a.v) luôn nhấn mạnh và khẳng định chắc chắn có trong Kinh Torah không phải là sự thật, thì những người như Abdullah ibn Salam – những học giả Do Thái tin tưởng vào Ngài – sẽ không thể nào duy trì đức tin Hồi giáo mà sẽ lập tức quay trở lại tôn giáo cũ của họ. Điều này cũng đúng với các học giả Kitô giáo. Sự tận tâm chân thành của họ đối với đức tin Hồi giáo suốt cuộc đời là minh chứng rõ ràng cho sự đúng đắn của câu kinh này và của Thánh Tổ Muhammad (s.a.v).
Với lời chào và lời cầu nguyện…
Hồi giáo qua các câu hỏi