Anh/chị thân mến,
Những người mà Chúng ta đã ban cho Kinh sách đều biết rằng Kinh sách (Kinh Qur’an) này được ban truyền từ Chúa của họ một cách chân thực. Vì vậy, đừng là người nghi ngờ, và đừng vì sự phủ nhận của một số người nghi ngờ mà bị ảnh hưởng và chấp thuận những người đề xuất trọng tài khác. Chắc chắn Kinh sách này là một lời nói chân thực được ban truyền từ Chúa của ngươi. Và lời nói của Chúa ngươi hoàn toàn đúng đắn và công bằng. Nói cách khác, Kinh Qur’an là lời nói của Allah bao gồm hai khía cạnh: thông tin (liên quan đến tin tức) và xây dựng (liên quan đến nguyện vọng), trong đó khía cạnh thông tin đòi hỏi sự chân thực, còn khía cạnh xây dựng đòi hỏi sự công bằng. Kinh Qur’an hoàn toàn đúng đắn về mặt thông tin và lời hứa, là chính sự thật; xa lánh sự dối trá và nghi ngờ. Về mặt luật pháp và phán quyết, nó hoàn toàn công bằng, là chính sự công bằng, xa lánh sự bất công và sai lệch. Không có gì, không có ai có thể thay đổi lời nói của Chúa, có thể phán xét, phân biệt, sửa chữa Ngài. Không ai có thể thay thế lời nói của Ngài bằng lời nói đúng đắn và công bằng hơn, hay thậm chí là lời nói tương tự. Lời nói là lời nói của Ngài; luật pháp là luật pháp của Ngài; kinh sách là kinh sách của Ngài; phán quyết là phán quyết của Ngài. Vậy làm sao có thể nghĩ đến và cho phép việc tìm kiếm trọng tài khác ngoài Allah, khi Ngài luôn luôn là người nghe và người biết? Ngài nghe và biết mọi lời nói, cả kín đáo lẫn công khai, Ngài nghe những lời lẽ của những người kiện tụng, biết ý định và mục đích của họ. Và Ngài biết không chỉ vẻ bề ngoài của những người sẽ bị xét xử mà còn cả những khía cạnh không thể nhìn thấy của họ. Ngài phán xét và ban phán quyết như vậy. Ai có thể phá vỡ phán quyết của Ngài? Và ai có thể thoát khỏi phán quyết của Ngài? Đó là phán quyết của Chúa.
Nội dung kinh thánh cho biết rằng nếu họ gây khó khăn cho Nhà tiên tri để đuổi ông ra khỏi quê nhà, thì chính họ cũng sẽ không thể tồn tại lâu sau đó, vì đó là luật lệ mà Chúa Trời đã áp dụng cho các cộng đồng của các nhà tiên tri trước đây, và luật lệ của Chúa Trời là bất biến. Nhà tiên tri (sallallahu alaihi wa sallam) đã khuyến khích những người yếu đuối, không có người bảo vệ, những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi sự đàn áp của Quraysh, hãy đến Abyssinia. Có lẽ do sự đàn áp không khoan nhượng của Quraysh, ban đầu ông cũng đã nghĩ đến việc đến Abyssinia, nhưng ông chỉ cho phép những người bạn đồng hành chịu sự đàn áp nhiều nhất đi. Sau đó, có thể thấy sự đàn áp của Quraysh càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Những người đa thần đang cố gắng gây khó dễ cho Nhà tiên tri (sallallahu alayhi wa sallam) và đuổi ông ra khỏi Mecca, họ nghĩ rằng bằng cách đó, tiếng nói của ông sẽ bị dập tắt và sẽ không còn ai nghe lời ông nữa. Trong câu kinh này, Allah an ủi Nhà tiên tri (sallallahu alayhi wa sallam) và cho biết những kẻ gây khó dễ để đuổi ông ra khỏi quê hương sẽ không thể ở lại lâu sau khi ông rời đi, và sẽ phải chịu hình phạt vì đã đuổi ông đi. Điều tương tự đã xảy ra với các dân tộc trước đây, những kẻ đuổi các vị tiên tri ra khỏi quê hương của họ đã phải chịu hình phạt.
Thực tế, sau một thời gian, Nhà tiên tri (sallallahu alayhi wa sallam) đã rời khỏi họ, và họ cũng không ở lại lâu, họ đã rời khỏi quê hương để chiến đấu với quân đội của Nhà tiên tri (sallallahu alayhi wa sallam), nhưng không thể quay trở lại và đã hy sinh tại Badr.
Tin mừng thuộc về họ ở đời này và đời sau. Đó là đặc điểm của họ, là sự ưu ái và ban ân của Allah dành cho họ. Đây chính là nền tảng của vấn đề “phép lạ của Thánh nhân là điều hiển nhiên”. Họ không nhận biết bạn bè hay người bảo hộ nào khác ngoài Allah, họ sợ và tránh xa những điều trái ngược với Allah, và họ không sợ bất cứ điều gì khác ngoài Ngài. Vì Allah là bạn của họ, nên họ không còn sợ hãi hay buồn phiền nữa. Họ đã được báo tin mừng ở đời này và cả đời sau. Câu này nói về đời này.
Và cũng trong thế giới bên kia,
họ sẽ được hưởng tin mừng.
Lời của Allah không thể thay đổi. Nghĩa là, những lời hứa, những lời báo tin lành của Allah sẽ không bao giờ thay đổi. Không có sức mạnh nào có thể thay đổi lời của Allah, không có khả năng nào có thể bãi bỏ phán quyết, quyết định của Ngài. Ví dụ: Không có sức mạnh hay trở ngại nào có thể khiến người ta sợ hãi hay buồn rầu khi Allah bảo “Đừng sợ, đừng buồn”. Và Allah cũng sẽ không bao giờ phản bội lời hứa của Ngài, Ngài luôn giữ lời hứa. Vì vậy,
Theo kinh Koran, trừ khi các vị thánh linh tự thay đổi và phá vỡ đức tính thánh thiện, đức tin và sự khiêm nhường của họ, thì không có khả năng Allah ta thay đổi lời hứa, lời báo tốt lành mà Ngài đã ban cho họ về thế giới này và thế giới sau. Đó là những lời báo tốt lành vĩnh cửu.
Vì những người thánh thiện đã được báo tin lành như vậy, và họ không hề sợ hãi và cũng sẽ không buồn rầu, thì bậc vị của người tiên tri còn cao hơn, ôi người tiên tri chân chính! Hãy biết rằng, ngươi không hề sợ hãi và buồn rầu.
Điều được nhấn mạnh là Kinh Qur’an, sách thiêng liêng của Allah, không thể bị thay đổi và không có ai khác ngoài Allah để cầu xin sự giúp đỡ.
Theo tập quán của Allah đối với những người trước đây, tức là theo luật lệ mà Ngài đã thiết lập. Bởi vì, ở bất cứ nơi nào, những kẻ gây ra sự chia rẽ và hỗn loạn luôn bị trừng phạt bằng cách giết chết hoặc đuổi bỏ, từ lâu đời nay, trong mọi dân tộc. Và ngươi sẽ không tìm thấy sự thay đổi nào trong tập quán và luật lệ của Allah. Tức là, tôn giáo Hồi giáo, tôn giáo đã bãi bỏ một số điều luật và luật lệ của các dân tộc trước đây, không đến để bãi bỏ hay thay đổi luật lệ về việc đuổi bỏ và loại trừ những kẻ gây hại và hỗn loạn. Bởi vì Allah không yêu thích những kẻ gây hỗn loạn, và Hồi giáo không phải để làm tăng sự hỗn loạn, mà là để tăng cường sự yên bình và hòa thuận.
Các sách thánh, là những lời truyền đạt từ Thượng đế, hoàn toàn tránh xa mọi sự mâu thuẫn và tranh chấp. Bởi vì sách được ban cho vị sứ giả là lời của Thượng đế. Việc Kinh Thánh đã bị xuyên tạc được chứng minh rõ ràng qua sự tồn tại của bốn bản Kinh Thánh khác nhau, sự mâu thuẫn và xung đột giữa chúng, cũng như việc chúng đưa ra những thông tin khác nhau.
Mục đích của Phúc Âm Ma-thi-ơ cũng là về cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su (as). Ma-cô là Phúc Âm ngắn nhất, nói nhiều về sự quan tâm của mọi người đối với Chúa Giê-su (as) và cuộc đời của Ngài. Lu-ca ngay từ đầu sách đã nêu rõ mục đích của mình là kể lại cuộc đời của Chúa Giê-su (as) một cách chính xác và chi tiết. Việc ông nói rằng mình viết sách cho Theophilus (Lu-ca: 1/3) cho thấy nó không phải do Chúa Giê-su (as) viết. Gio-an thì tự mình cho biết mình đã viết Phúc Âm; Ngài nói: “Hãy sống đời đời nhờ danh Ngài” (20/30-31).
Còn thông điệp thần truyền chỉ là lời, lời nói, lời tuyên bố của Thượng đế. Nó bao gồm các luật lệ, mệnh lệnh và sự cấm đoán mà Thượng đế đã ban cho vị tiên tri và cộng đồng của ông. Nó báo trước về các vị tiên tri trước đây và về thế giới bên kia.
Như đã thấy, những cuốn Phúc Âm được nhắc đến ở đây đều được viết sau khi Chúa Giê-su ra đời và ghi lại cuộc đời của Ngài. Các bản sao của Lời Tiên Tri Thần thánh đã bị lẫn lộn, và Phúc Âm chân chính được truyền xuống cho Chúa Giê-su đã bị xuyên tạc. Khi được xem xét kỹ, suy nghĩ một cách tỉnh táo, sự thật này sẽ được nhìn thấy rõ ràng.
Thứ nhất, các sách Phúc Âm được viết khoảng một thế kỷ sau khi Chúa Giê-su ra đời, và không được viết bằng ngôn ngữ của Ngài. Thậm chí, theo như Tân Ước, các tác giả Phúc Âm chỉ là những người phát ngôn của cộng đồng Kitô giáo đầu tiên, những người đã ghi lại truyền thuyết bằng lời nói. Mỗi tác giả Phúc Âm đã xây dựng những liên kết giữa các câu chuyện và những lời truyền lại mà họ nhận được từ truyền thống xung quanh họ, dựa trên phong cách, cá tính và những mối quan tâm tôn giáo riêng của họ.
Trong Phúc Âm Ma-thi-ơ (1/1-17), tổng số tên được nêu là cha của Chúa Giê-su (bao gồm cả A-brê-ham) là 40 người, tính đến A-brê-ham. Trong Phúc Âm Lu-ca, tổng số tên được nêu (bao gồm cả A-brê-ham) là 55 người.
Trong khi Phúc Âm Lu-ca (3/23-38) cho rằng Chúa Giê-su là con của Ma-ta, thì Phúc Âm Ma-thi-ơ (1/16) lại cho rằng Ngài là con của thợ mộc Giu-se.
Mặt bằng Phúc Âm (11/18) nói rằng Gioan không ăn không uống, trong khi Mặt bằng Phúc Âm (1/6) lại nói rằng Gioan ăn sâu bọ và mật ong rừng, điều này mâu thuẫn với nhau.
Theo Ma-thi-ơ (27/60), Ma-kết (15/46) và Lu-ca (23/53), xác của Chúa Giê-su được lấy xuống và đặt vào một ngôi mộ đào trong đá. Còn theo Gio-an (19/41), xác của Chúa Giê-su được đặt vào một ngôi mộ trong vườn. Trong Phúc Âm Ma-thi-ơ (17/15), một người đàn ông đến với Chúa Giê-su để xin Chúa cứu con trai mình bị bệnh phong, trong khi Phúc Âm Ma-kết (9/17) lại nói rằng người đàn ông đó đưa con trai mình bị quỷ ám đến với Chúa Giê-su. Còn Lu-ca, khi thuật lại câu chuyện này, lại nói rằng người đàn ông đó đã cầu xin Chúa Giê-su: “Thưa thầy! Tôi xin thầy thương xót con tôi!”
Các sách Phúc Âm được viết bằng tiếng Hy Lạp. Một số thuật ngữ trong Tân Ước vẫn giữ được tính nguyên bản của chúng không phải là tiếng Hy Lạp mà là tiếng Do Thái. Điều này cũng là bằng chứng cho thấy sự xuyên tạc. Bởi vì ngôn ngữ của Chúa Giê-su là tiếng A-ran (tiếng Do Thái).
Theo Phúc Âm Ma-thi-ơ, Chúa Giê-su tuyên bố rằng Ngài đến không phải để phá bỏ luật pháp của Môi-se, mà là để hoàn thành nó.
Tuy nhiên, Tân Ước ngày nay lại dạy rằng luật lệ của Moses đã hoàn toàn bị Chúa Giê-su bãi bỏ. Điều này là một sự mâu thuẫn.
Câu Kinh Thánh về Chúa Ba Ngôi, được coi là nền tảng của Kitô giáo, có nội dung như sau: “Vì có ba người làm chứng trên trời: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần; và ba người này hiệp nhất. Và có ba người làm chứng dưới đất: Đức Thánh Thần, nước, và huyết; và ba người này hiệp nhất.” (Gioan 5:7-8). Phần đầu tiên đã được loại bỏ khỏi bản sửa đổi năm 1881 và không còn xuất hiện trong các ấn bản mới hiện nay.
Ví dụ này cho thấy rằng có những sự xuyên tạc trong Kinh Thánh Kitô giáo và những sự xuyên tạc này vẫn còn tiếp diễn.
Có sự mâu thuẫn giữa lời của Ma-thi-ơ (5/39-40): “Đừng chống lại kẻ ác, mà hãy quay má bên kia cho người đánh má bên kia của ngươi; nếu ai kiện ngươi, hãy để người ta lấy áo choàng của ngươi nữa”, và lời của Ma-thi-ơ (10/34): “Đừng tưởng rằng ta đến để mang lại sự bình an cho đất; ta đến không phải để mang lại sự bình an, mà là để mang lại đao kiếm”.
Theo Ma-thi-ơ (20/29), số người mù đến xin được chữa lành khi Chúa Giê-su đi ra khỏi thành Giê-ri-cô là hai người. Còn theo Ma-ca (10/46), số người mù đến xin được chữa lành là một người.
Theo Phúc Âm Ma-thi-ơ (10/9), Chúa Giê-su không cho phép các môn đệ mang theo cả cây gậy.
Theo lời của Phúc Âm Mác-cô (6/8), ông đã khuyên họ mang theo gậy.
Mát-ta (25/15) mô tả các tôi tớ là ba người, trong khi Lu-ca (19/33) mô tả các tôi tớ là mười người.
Theo Phúc Âm Ma-thi-ơ (18/1), người đặt câu hỏi về ai là người lớn nhất trong Nước Thiên Đàng là các môn đệ của Chúa Giê-su. Còn theo Phúc Âm Ma-kết (9/33-34), chính Chúa Giê-su là người đưa ra câu hỏi đó.
Trong Phúc Âm Mác-cô, có chỗ (1/1) gọi là Phúc Âm của Chúa Giê-su Ki-tô, nhưng ở chỗ khác (1/14) lại gọi là Phúc Âm của Đức Chúa Trời.
Trong Phúc Âm Lu-ca, có chỗ gọi Chúa Cứu Thế là Đức Chúa Trời, và có chỗ lại gọi Chúa Cứu Thế là Chúa Giê-su. (2:11)
Để chỉ Chúa Giê-su, người ta thường dùng cả hai cách gọi: Con trai của Chúa Trời, và con trai của Giu-se, con trai của Đa-vít, con trai của A-dăm.
Điều nào trong số này là đúng? Trong tôn giáo thiêng liêng, không thể có những mâu thuẫn lớn như vậy. Những điều này cho thấy sự sai lệch lớn lao trong Kinh Thánh.
Trong các bản chú thích của Kinh Thánh, người ta thường thấy dòng chữ: “Nhiều bản thảo cổ có thêm những dòng chữ sau đây”.
Hoặc như trong đoạn Markos (16/20), người ta nói rằng các câu 9-20 của chương này không có trong các bản văn cổ.
Sự công khai phô bày sự xuyên tạc này cũng xuất hiện trong Phúc Âm Gioan (7/53 – 8/11).
Những mâu thuẫn và sự thiếu nhất quán như vậy không thể xuất hiện trong một cuốn sách được cho là của Thượng đế. Mặt khác, một vị tiên tri, người là tôi tớ và sứ giả của Thượng đế, cũng không tự coi mình là Thượng đế và không cho phép người ta thờ phượng mình.
Vì vậy, có thể hiểu rằng Phúc Âm được truyền xuống cho Chúa Giê-su sau này đã được viết và làm sai lệch bởi bàn tay con người.
Kinh Qur’an thông báo rằng Kinh Thánh đã bị xuyên tạc như sau:
Với lời chào và lời cầu nguyện…
Hồi giáo qua các câu hỏi