Anh/chị thân mến,
(1877-1938) Nhà tư tưởng, nhà thơ người Hồi giáo Ấn Độ.
Ông sinh ra tại thành phố Sialkot, gần biên giới Kashmir thuộc tỉnh Punjab. Mặc dù có nhiều thông tin khác nhau về ngày sinh của ông, nhưng trong luận án tiến sĩ của mình, ông đã ghi nhận ngày sinh là 2 tháng Zilkade năm 1294 (8 tháng 11 năm 1877). Cha ông, Nur Muhammad, một người theo Sufi, và mẹ ông, Imam Bibi, đã ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển nhân cách tôn giáo của ông.
Tình trạng của thế giới Hồi giáo đã thôi thúc Iqbal, giống như các nhà tư tưởng Hồi giáo Ấn Độ khác, đến với ý tưởng rằng các quốc gia Hồi giáo cần phải thực hiện một cuộc phục hưng. Mặc dù được chính quyền Anh phong tước hiệu “Sir” năm 1922, ông đã không sử dụng danh hiệu này. Ông là thành viên Hội đồng Lập pháp Punjab từ năm 1926 đến 1929. Từ năm 1928 đến 1929, ông đã thuyết trình các bài giảng về việc xây dựng lại tư tưởng Hồi giáo tại các trường đại học Madras, Hyderabad và Aligarh. Năm 1930, ông đã chủ trì cuộc họp thường niên của Liên đoàn Hồi giáo Ấn Độ tại Allahabad. Bước đi đầu tiên quan trọng hướng tới việc thành lập Nhà nước Pakistan độc lập đã được thực hiện dựa trên những suy nghĩ mà Iqbal đã trình bày trong bài phát biểu khai mạc cuộc họp này. Năm 1931, ông được bầu làm phó chủ tịch Đại hội Hồi giáo Thế giới tại Hội nghị Hồi giáo Quốc tế lần thứ II.
Iqbal cũng tham dự Hội nghị Bàn tròn lần thứ hai được tổ chức tại London năm 1931 để thảo luận về việc trao quyền tự trị hạn chế cho người dân Ấn Độ, và ở đó ông đã có sự tiếp xúc mật thiết với Muhammad Ali Jinnah. Trên đường trở về, sau khi ghé thăm Ý và Ai Cập, ông đã tham gia cuộc họp Hội đồng Hồi giáo Thế giới được tổ chức tại Palestine. Năm 1932, ông lại tham dự Hội nghị Bàn tròn lần thứ III được tổ chức tại London, và sau cuộc họp, ông đã đến Paris và gặp Henri Bergson và Louis Massignon. Từ đó, Iqbal đến Tây Ban Nha, việc ông đến thăm Nhà thờ Hồi giáo Cordoba và được phép khó khăn để làm lễ cầu nguyện trong nhà thờ đã trở thành một kỷ niệm khó quên đối với ông. Ông đã viết bài thơ “Mescid-i Kurtuba” về điều này. Từ Tây Ban Nha, ông đến Ý và gặp Mussolini, yêu cầu ông đối xử tốt với người Hồi giáo ở Bắc Phi. Năm 1933, theo lời mời của Quốc vương Nadir Shah của Afghanistan, ông đã đến Kabul cùng với Suleiman Nadvi để thảo luận về việc sắp xếp lại hệ thống hành chính của Afghanistan.
Năm 1934, Iqbal mắc bệnh ung thư cổ họng và mất giọng, sau đó thị lực của ông cũng suy giảm nghiêm trọng, và ông bắt đầu gặp khó khăn về tài chính. Mặc dù vậy, ông vẫn tiếp tục quan tâm đến các vấn đề và tương lai của dân tộc mình cũng như của thế giới Hồi giáo. Năm 1937, ông viết thư cho Muhammad Ali Jinnah, người mà ông coi là lãnh đạo vĩ đại nhất của người Hồi giáo ở Ấn Độ, bày tỏ quan điểm của mình về độc lập và an ninh của người Hồi giáo Ấn Độ.
Ông qua đời ngày 21 tháng 4 năm 1938 và được an táng dưới chân tháp của Nhà thờ Hồi giáo Shahî ở Lahore.
Theo Muhamed Iqbal, con người là loài được tạo ra cuối cùng trong tất cả các loài được tạo ra.
“Halik”
Con người là loài duy nhất có khả năng tham gia một cách có ý thức vào cuộc sống sáng tạo của Thượng đế. Thế giới đã đạt được một thực thể quý giá, có lý trí, tình yêu và ý chí tự do khi con người xuất hiện trên sân khấu của sự tồn tại. Tuy nhiên, để đạt được trình độ này, con người cần phải theo đuổi một chương trình sống củng cố bản ngã. Có ba bước quan trọng trong sự thăng tiến tâm linh. Đó là sự phục tùng và khuất phục hoàn toàn luật lệ của Thượng đế, sự kỷ luật bản ngã và sự cai trị. Những nguyên tắc chính củng cố bản ngã là tình yêu, sự nghèo khó, lòng dũng cảm, sự khoan dung và thu nhập hợp pháp. Tình yêu là phương tiện để con người nhận thức được khả năng và năng lực của chính mình. Con đường tình yêu cho phép con người được trang bị những phẩm chất thiêng liêng; tình yêu không phải là đối thủ của lý trí, thậm chí cần phải kết hợp tình yêu và lý trí. Sự nghèo khó là một trong những điều kiện cơ bản để thoát khỏi tinh thần nô lệ và trở nên tự do. Lòng dũng cảm là điều kiện tiên quyết của sự thành công, là nguồn năng lượng bảo vệ bản ngã khỏi sự tan vỡ trong những thời điểm khó khăn. Sự khoan dung là sự hiểu biết về bản ngã của chính mình, cho phép con người hiểu được những bản ngã khác và mở cửa trái tim của họ. Thu nhập hợp pháp bao gồm mọi kết quả thành công đạt được hoặc thực hiện được trong lĩnh vực vật chất và tinh thần, bên cạnh sự giàu có hợp pháp, với sự quan tâm đến tính hợp pháp. Những điều không tốt như sợ hãi, nô lệ, ăn xin, khoe khoang về dòng dõi là những yếu tố làm suy yếu hoặc phá vỡ bản ngã.
Theo Iqbal, người tin tưởng mà Kinh Qur’an mô tả là một người hoàn toàn tích cực.
Sự năng động này thể hiện rõ ràng ở thế hệ người Hồi giáo đầu tiên. Tuy nhiên, động lực này dần suy yếu, và một số trường phái tư tưởng sau đó đã đẩy nhanh quá trình này. Thật vậy, dù triết học Hy Lạp đã tạo nên một sức mạnh văn hóa trong lịch sử Hồi giáo và mở rộng tầm nhìn của các nhà tư tưởng Hồi giáo, nhưng nhìn chung nó đã làm mờ đi cách nhìn của họ về Kinh Qur’an.
Tiếp nối truyền thống của Fârâbî và Ibn Sînâ, Iqbal khẳng định rằng cấu trúc xã hội Hồi giáo được hình thành nhờ sự chuyển dịch ý thức tiên tri vào đời sống chính trị. Từ ban đầu, Hồi giáo đã hướng tới mục tiêu xây dựng và định hướng một xã hội dân sự dựa trên nền tảng đạo đức. Vì vậy, từ góc độ Hồi giáo, không thể nói đến một nền chính trị thiếu đi sự đóng góp tích cực của tôn giáo. Nếu tôn giáo tách rời khỏi chính trị, thì điều còn lại chỉ là sự tàn bạo như thời Cảnh Hanh.
Íqbal, người dành phần lớn cuộc đời mình cho chính trị, ban đầu được cho là ủng hộ một loại chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ. Tuy nhiên, sau khi trở về từ châu Âu, ông đã đề cập đến một quan điểm chính trị khác. Nhiều người cho rằng đây là giai đoạn chủ nghĩa toàn cầu Hồi giáo của ông. Có vẻ như một số nhà văn Ấn Độ và phương Tây, khi đánh giá Íqbal là người theo chủ nghĩa toàn cầu Hồi giáo, cũng muốn hạ thấp tầm quan trọng của ông. Bản thân Íqbal thừa nhận là người theo chủ nghĩa toàn cầu Hồi giáo, nhưng ông cũng đồng tình với những người cho rằng chủ nghĩa toàn cầu Hồi giáo chính trị chưa bao giờ thực sự xảy ra trong lịch sử Hồi giáo, và chỉ nên nói đến chủ nghĩa toàn cầu Hồi giáo ở nghĩa “nhân đạo”. Như vậy, Íqbal đã hướng tới một quan niệm về cộng đồng Hồi giáo ở giai đoạn thứ ba. Theo đó, cộng đồng Hồi giáo cuối cùng sẽ bao gồm một cộng đồng các quốc gia Hồi giáo đã giành được độc lập và củng cố vững mạnh nội bộ. Íqbal tin chắc rằng quan niệm chủ nghĩa dân tộc chính trị bắt nguồn từ phương Tây sẽ làm tan vỡ sự thống nhất của Hồi giáo. Hồi giáo không chống lại tình cảm dân tộc hay ý tưởng về tổ quốc. Vấn đề đối với Hồi giáo là chủ nghĩa dân tộc, với tư cách là nguyên tắc định nghĩa và quyết định cuối cùng đối với xã hội.
Ikbal cũng chỉ trích chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa xã hội giáo điều xuất hiện ở phương Tây. Trong cuốn “Das Kapital” của Marx, có những chân lý ẩn giấu giữa những điều huyền hũ; nhưng Marx lại nhấn mạnh sự bình đẳng về bụng, trong khi đầu óc lại mang tư tưởng vô thần. Chủ nghĩa đế quốc cũng phát triển dựa trên bụng và thân thể; cả hai đều không biết đến Thượng đế, đều lừa dối con người. Trong khi đó, Ikbal nhắc nhở về sự lan rộng của lòng ngưỡng mộ châu Âu trong các quốc gia Hồi giáo và cảnh báo về những nguy hiểm của xu hướng này. Thực tế, Ikbal không có thái độ tiêu cực đối với phương Tây, miễn là có thái độ phê bình. Điều ông phản đối là sự bắt chước mù quáng. Người Hồi giáo cũng đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của khoa học và công nghệ ở phương Tây. Vì vậy, việc đưa chúng trở lại thế giới Hồi giáo có nghĩa là bảo vệ di sản của chính mình.
Quan tâm đến những khó khăn gần đây của dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ, Iqbal đã thể hiện sự quan tâm này ngay từ năm 1911 qua bài thơ ông viết cho các liệt sĩ trong Chiến tranh Tripolitania. Trong bài thơ, khi được hỏi ông mang đến món quà gì cho Thánh Tổ (sallallahu alayhi wa sallam), Iqbal đáp rằng ông mang đến một món quà không có cả ở thiên đường, đó là một bình chứa máu của các liệt sĩ Thổ Nhĩ Kỳ. Iqbal ca ngợi người Thổ Nhĩ Kỳ là dân tộc Hồi giáo duy nhất giữ được độc lập trong thời kỳ thực dân, đồng thời ông cũng nhìn thấy tiềm năng của họ trong việc thực hiện sự phục hưng Hồi giáo. Vai trò của người Thổ Nhĩ Kỳ trong lịch sử Hồi giáo, cũng như lòng dũng cảm của họ trong các cuộc chiến tranh Tripolitania, Balkan, Thế chiến thứ nhất và cuộc chiến giành độc lập quốc gia là những đặc điểm mà Iqbal ngưỡng mộ và hy vọng vào tương lai. Ông hoan nghênh việc bãi bỏ chế độ quân chủ và thiết lập nền Cộng hòa, và dũng cảm đánh giá điều đó trong phạm vi Hồi giáo. Tuy nhiên, khi nhận thấy những diễn biến và phong trào Tây hóa xuất hiện trong những năm sau đó không phải là điều cần thiết trong giai đoạn chuyển tiếp như ông mong muốn, ông đã chỉ trích thẳng thắn và bày tỏ sự buồn bã của mình trong tác phẩm Câviđnâme.
Theo Iqbal, việc hướng về phương Tây với tư duy bắt chước là tự xa rời bản thân. Sức mạnh của phương Tây không nằm ở giải trí mà ở khoa học và kỹ thuật. Để có khoa học và kỹ thuật, cần có đầu óc chứ không phải là sự châu Âu hóa. Trí tuệ, khoa học và kỹ năng không liên quan gì đến trang phục. “Người Thổ Nhĩ Kỳ đang say mê và trở thành nô lệ của châu Âu, và vì muốn thể hiện bản thân mà đã mang nhạc và vũ điệu từ phương Tây về. Nhưng trái với tất cả những lời lẽ này, Iqbal vẫn còn do dự về người Thổ Nhĩ Kỳ. Một mặt, ông chỉ trích việc thế tục hóa và phương Tây hóa, mặt khác lại hy vọng rằng quá trình này sẽ kết thúc bằng việc hướng tới một nền Hồi giáo thực sự. Thật vậy, phản hồi lại lời tuyên bố của Nehru rằng người Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến bộ bằng cách thoát khỏi sự ràng buộc tôn giáo,…”
“Người Thổ Nhĩ Kỳ không từ bỏ tôn giáo của họ, mà ngược lại, họ đang hướng tới một nền Hồi giáo chân chính hơn.”
đã nói.
(Bách khoa toàn thư Hồi giáo Diyanet, mục từ İkbal Muhammed)
Với lời chào và lời cầu nguyện…
Hồi giáo qua các câu hỏi